Hợp đồng hứa thưởng của Luật sư với khách hàng có bị vô hiệu không?

Hợp đồng hứa thưởng là loại hợp đồng khá phổ biến và được quy định theo Bộ luật Dân sự và không giới hạn đối tượng được ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, hiện hành vẫn có nhiều quan điểm về việc xác định hợp đồng hứa thưởng được giao kết giữa Luật sư và khách hàng có bị vô hiệu không?

Hợp đồng hứa thưởng của Luật sư với khách hàng có bị vô hiệu không?

Tại điểm đ khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006 sửa đổi năm 2012 có nghiêm cấm Luật sư “Nhận, đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý”.

Đồng thời, tại Quy tắc 9.2 Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định 201/QĐ-HĐLSTQ năm 2019 của Hội đồng Luật sư toàn quốc) thì Luật sư không được “Gợi ý, đặt điều kiện để khách hàng tặng cho tài sản hoặc lợi ích khác cho luật sư hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em của luật sư” trong quan hệ với khách hàng. Bên cạnh đó, tại Điều 5 Luật Luật sư cũng quy định nguyên tắc hành nghề của Luật sư là phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.

Từ các quy định trên, Luật sư không được nhận hoặc đòi hỏi hoặc gợi ý, đặt điều kiện để nhận thêm khoản tiền, lợi ích khác từ khách hàng ngoài những khoản thù lao và chi phí các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Vậy việc Luật sư ký hợp đồng hứa thưởng với khách hàng thì có bị xem là vi phạm điều cấm của Luật Luật sư và vi phạm quy tắc đạo đức hành nghề hay không? Hợp đồng này có bị vô hiệu không?

Hiện hành vấn đề này vẫn có 02 quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng việc Luật sư ký hợp đồng hứa thưởng với khách hàng, bên cạnh hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm điều cấm của Luật, vi phạm quy tắc đaọ đức hành nghề Luật sư. Cụ thể theo điểm đ khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006 sửa đổi năm 2012 và Quy tắc 9.2 Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì Luật sư không được phép ký hợp đồng hứa thưởng với khách hàng, việc ký hợp đồng hứa thưởng được xem là hành vi “nhận, đòi hỏi” thêm một khoản lợi ích từ khách hàng ngoài thù lao và chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.

Theo quy định tại Điều 570 Bộ luật Dân sự 2015 thì công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Tại điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Tại Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015 quy định giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Trong đó có giải thích điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

Như vậy, việc Luật sư ký kết hợp đồng hứa thưởng với khách hàng được xem là vi phạm điều cấm của Luật Luật sư nên hợp đồng này sẽ bị vô hiệu theo quy định tại Điều 117, 123 Bộ luật Dân sự 2015.

Quan điểm thứ hai lại trái ngược với quan điểm thứ nhất khi cho rằng việc Luật sư ký kết hợp đồng hứa thưởng với khách hàng là không vi phạm điều cấm của Luật, không vi phạm quy tắc đạo đức, ứng xử hành nghề Luật sư. Cụ thể, việc Luật sư giao kết hợp đồng hứa thưởng với khách hàng là hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện và phù hợp với ý chí của các bên vào thời điểm giao kết, Luật sư không thể ép buộc khách hàng trả thêm một khoản tiền khi họ không đồng ý về việc này.

Tại khoản 1 Điều 570 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa thưởng. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.”

Trường hợp này, Luật sư không ép buộc khách hàng ký kết hợp đồng hứa thưởng, việc ký kết được thực hiện trên tinh thần tự nguyện, tự do và bản chất quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006 sửa đổi năm 2012 là đang cấm Luật sư đòi hỏi thêm lợi ích từ khách hàng chứ không cấm việc khách hàng thưởng thêm cho Luật sư trên tinh thần tự nguyện. Do đó, bản chất của hợp đồng hứa thưởng được Luật sư và khách hàng tự do thỏa thuận, ký kết không được xem là vi phạm điều cấm.

Do đó, căn cứ theo khoản 2 Điều 3, Điều 117, Điều 570 Bộ luật Dân sự 2015 thì hợp đồng hứa thưởng được ký kết giữa Luật sư và khách hàng vẫn có giá trị pháp lý.

Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến hứa thưởng, các Tòa án cũng có những hướng quan điểm khác nhau về tính hợp pháp của hợp đồng hứa thưởng được ký giữa Luật sư và khách hàng. Điển hình tại Quyết định Giám đốc thẩm số 271/2024/DS-GĐT ngày 24/10/2024 về tranh chấp hợp đồng hứa thưởng giữa nguyên đơn là một Luật sư, bị đơn là khách hành của Luật sư.

Tại bản án sơ thẩm và phúc thẩm thì các cấp Tòa án đều nhận định rằng hợp đồng hứa thưởng được giao kết giữa Luật sư và khách hàng là hợp đồng có giá trị pháp lý, không bị vô hiệu do vi phạm điều cấm. Tuy nhiên, quan điểm của cấp Giám đốc thẩm lại hoàn toàn trái ngược, cụ thể Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm nhận định như sau:

“Xét thấy, tại điểm đ khoản 1 Điều 9 Luật luật sư năm 2015 và Quy tắc số 9.2 trong Bộ Q1 (ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội) thì Luật sư không được ký hợp đồng hứa thưởng với khách hàng, nếu vi phạm sẽ bị xem xét xử lý kỷ luật. Mặc dù, biết rõ các quy định nêu trên nhưng ông Lê Văn T- Trưởng Văn phòng L vẫn thỏa thuận ký hợp đồng hứa thưởng với vợ chồng ông Huỳnh Phú Q, bà Lê Thị Mỹ D. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định hợp đồng hứa thưởng không vi phạm pháp luật và Bộ Q1, ứng xử nghề nghiệp Luật sư để từ đó buộc ông Q và bà D trả cho Văn phòng L số tiền 1.440.000.000 đồng là không đúng pháp luật.

Trường hợp này, có cơ sở xác định Hợp đồng hứa thưởng ngày 14/8/2020 được ký kết giữa ông Huỳnh Phú Q, bà Lê Thị Mỹ D với Văn phòng L- do ông Lê Văn T làm đại diện đã vi phạm điều cấm của pháp luật. Căn cứ Điều 117 và Điều 123 của Bộ luật Dân sự thì hợp đồng hứa thưởng trên vô hiệu tại thời điểm ký kết.”

Theo đó, Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm cho rằng, Luật sư không được ký kết hợp đồng hứa thưởng với khách hàng, việc Luật sư ký kết hợp đồng hứa thưởng với khách hàng được xem là vi phạm điều cấm của pháp luật, áp dụng Điều 117, Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015 để xác định hợp đồng này vô hiệu.

Hợp đồng hứa thưởng của Luật sư với khách hàng có bị vô hiệu không?

Hợp đồng hứa thưởng của Luật sư với khách hàng có bị vô hiệu không?

Luật sư ký hợp đồng hứa thưởng với khách hàng bị kỷ luật như thế nào?

Tại điểm a khoản 4 Điều 42 Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam kèm theo Quyết định 856/QĐ-TTg năm 2019 quy định:

Kỷ luật đối với luật sư, người tập sự hành nghề luật sư
4. Luật sư thuộc một trong các trường hợp sau thì bị Đoàn Luật sư xem xét xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn Luật sư theo thủ tục quy định tại khoản 5 Điều này:
a) Vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Nội quy Đoàn Luật sư, Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam;

Tại Điều 31 Quyết định 50/QĐ-HĐLSTQ năm 2023 của Hội đồng Luật sư toàn quốc ban hành Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật quy định:

Xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn Luật sư
1. Hình thức kỷ luật “xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn Luật sư” được áp dụng khi luật sư vi phạm kỷ luật thuộc một trong các trường hợp sau đây:
b) Vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Nội quy Đoàn Luật sư, Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam;
2. Vi phạm nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 4 Điều 42 Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam là vi phạm thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật Luật sư, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam;

Từ các quy định trên, trường hợp nhận định việc Luật sư ký kết hợp đồng hứa thưởng với khách hàng bên cạnh hợp đồng dịch vụ pháp lý là vi phạm điều cấm của Luật Luật sư và vi phạm Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì Luật sư vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo hình thức xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn Luật sư.

Luật sư không được phép làm những điều gì trong quan hệ với khách hàng?

Theo quy định tại Điều 9 Luật Luật sư 2006 sửa đổi năm 2012 và Điều 9 Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định 201/QĐ-HĐLSTQ năm 2019 của Hội đồng Luật sư toàn quốc) thì Luật sư không được làm những việc sau đây trong quan hệ với khách hàng:

(1) Nhận, chiếm giữ, sử dụng tiền, tài sản của khách hàng trái với thỏa thuận giữa luật sư và khách hàng.

(2) Gợi ý, đặt điều kiện để khách hàng tặng cho tài sản hoặc lợi ích khác cho luật sư hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em của luật sư.

(3) Nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích nào khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện công việc gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.

(4) Tạo ra hoặc lợi dụng các tình huống xấu, những thông tin sai sự thật, không đầy đủ hoặc bất lợi cho khách hàng để gây áp lực nhằm tăng mức thù lao đã thỏa thuận hoặc có được lợi ích khác từ khách hàng.

(5) Sử dụng thông tin biết được từ vụ việc mà luật sư đảm nhận để mưu cầu lợi ích không chính đáng.

(6) Thông tin trực tiếp cho khách hàng hoặc dùng lời lẽ, hành vi ám chỉ để khách hàng biết về mối quan hệ cá nhân của luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác nhằm mục đích gây niềm tin với khách hàng về hiệu quả công việc hoặc nhằm mục đích bất hợp pháp khác.

(7) Cố ý đưa ra những thông tin làm cho khách hàng nhầm lẫn về khả năng và trình độ chuyên môn của mình để tạo niềm tin cho khách hàng ký kết hợp đồng.

(8) Hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả năng, điều kiện thực hiện của luật sư.

(9) Lợi dụng nghề nghiệp để quan hệ tình cảm nam nữ bất chính với khách hàng.

(10) Lạm dụng các chức danh khác ngoài danh xung luật sư trong hoạt động hành nghề để mưu cầu lợi ích trái pháp luật.

Hợp đồng hứa thưởng
Căn cứ pháp lý
MỚI NHẤT
Lao động tiền lương
Hợp đồng hứa thưởng của Luật sư với khách hàng có bị vô hiệu không?
Lao động tiền lương
Mẫu hợp đồng hứa thưởng mới nhất có dạng như thế nào?
Lao động tiền lương
Công ty có được quyền rút tuyên bố hứa thưởng khi đã có hợp đồng hứa thưởng cho nhân viên không?
Lao động tiền lương
Hợp đồng hứa thưởng là gì? Công ty có bắt buộc phải có thưởng cho người lao động không?
Đi đến trang Tìm kiếm - Hợp đồng hứa thưởng
17 lượt xem
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào