Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án xây dựng với lý do chưa quyết toán công trình nên chưa xác định được thiệt hại có đúng không?

Cơ quan Thanh tra chuyển hồ sơ có dấu hiệu hành vi vi phạm quy định của Luật Xây dựng, và một số luật khác của tổng công ty xây dựng đối với dự án công trình nhà chung cư, công trình đường cao tốc (các dự án này đã đưa vào sử dụng từ lâu (năm 2018 trở về trước, nhưng do nhà thầu và chủ đầu tư chưa quyết toán được công trình). sau 4 tháng (đã gia hạn) cơ quan điều tra trả lại hồ sơ với lý do: Chưa quyết toán công trình nên chưa xác định được thiệt hại. Tôi muốn hỏi quyết định của cơ quan điều tra như vậy có đúng không? Trường hợp phát hiện việc đình chỉ này không có căn cứ thì có hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra không?

Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án xây dựng với lý do chưa quyết toán công trình nên chưa xác định được thiệt hại có đúng không?

Căn cứ khoản 1 Điều 230 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 quy định:

"Điều 230. Đình chỉ điều tra
1. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;
b) Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm."

Theo quy định trên, có thể thấy những căn cứ mà cơ quan điều tra có thể dùng để ra quyết định đình chỉ điều tra bao gồm:

- Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ (trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án)

- Căn cứ kết quả quá trình điều tra xác định được vụ việc thuộc trường hợp không được khởi tố vụ án hình sự

+ Không có sự việc phạm tội;

+ Hành vi không cấu thành tội phạm;

+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;

+ Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;

+ Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;

+ Tội phạm đã được đại xá;

+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;

+ Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.

- Trường hợp quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc Khoản 2 Điều 91 Bộ luật Hình sự (những trường hợp người phạm tội thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự).

- Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.

Theo quy định trên thì nếu hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra.

Theo quan điểm của người viết, việc quyết toán hay chưa không phải yếu tố chính quyết định về việc có dấu hiệu phạm tội hay không.

Nếu dự án chưa quyết toán, cơ quan điều tra bằng nghiệp vụ của mình tiến hành thu thập, xác minh thông tin, bằng chứng liên quan đến vụ việc, mời các bên liên quan đến vụ việc cung cấp thông tin liên quan để xác định các khoản chi có phù hợp hay không.

Nếu đã sử dụng tất cả các nghiệp vụ, khả năng điều tra của mình nhưng vẫn không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì mới ra quyết định đình chỉ điều tra.

Đơn vị anh có thể trao đổi lại với Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát về vấn đề này xem Cơ quan điều tra đã thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ của mình chưa.

Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án xây dựng với lý do chưa quyết toán công trình nên chưa xác định được thiệt hại có đúng không?

Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án xây dựng với lý do chưa quyết toán công trình nên chưa xác định được thiệt hại có đúng không?

Nội dung của quyết định điều tra có bao gồm lý do ra quyết định đình chỉ điều tra hay không?

Căn cứ khoản 2 Điều 230 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 quy định những nội dung của quyết định đình chỉ điều tra bao gồm:

"Điều 230. Đình chỉ điều tra
...
2. Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên quan.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can."

Theo đó, một trong những nội dung bắt buộc phải có của quyết định đình chỉ điều tra là lý do và căn cứ cho việc đình chỉ điều tra.

Trường hợp phát hiện căn cứ đình chỉ điều tra không phù hợp thì có hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra hay không?

Tại khoản 3 Điều 230 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 có quy định về trường hợp này như sau:

"Điều 230. Đình chỉ điều tra
...
3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật này."

Như vậy, Viện kiểm sát là đơn vị xem xét quyết đình chỉ điều tra, nếu thấy không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra.

Đình chỉ điều tra
Căn cứ pháp lý
MỚI NHẤT
Pháp luật
Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án xây dựng với lý do chưa quyết toán công trình nên chưa xác định được thiệt hại có đúng không?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Đình chỉ điều tra
1,899 lượt xem
TÌM KIẾM LIÊN QUAN
Đình chỉ điều tra
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào