Viết bài văn nghị luận về một vấn đề có liên quan đến tuổi trẻ lớp 12 chọn lọc? Viết bài văn nghị luận về tuổi trẻ hay nhất?

Viết bài văn nghị luận về một vấn đề có liên quan đến tuổi trẻ lớp 12 chọn lọc? Viết bài văn nghị luận về tuổi trẻ hay nhất?

Viết bài văn nghị luận về một vấn đề có liên quan đến tuổi trẻ lớp 12 chọn lọc? Viết bài văn nghị luận về tuổi trẻ hay nhất?

Viết bài văn nghị luận về một vấn đề có liên quan đến tuổi trẻ lớp 12 chọn lọc (Viết bài văn nghị luận về tuổi trẻ hay nhất) như sau:

BÀI 1

Tuổi trẻ và trách nhiệm với bản thân

Tuổi trẻ là giai đoạn đẹp nhất trong cuộc đời, là quãng thời gian mà mỗi người đều có đủ năng lượng, nhiệt huyết và khát vọng để khám phá bản thân và thế giới. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thức được rõ ràng về trách nhiệm của mình trong giai đoạn quan trọng này. Việc hiểu rõ và thực hiện trách nhiệm với bản thân là một yếu tố quyết định đến tương lai của mỗi người trẻ và góp ý vào sự phát triển của xã hội.

Trách nhiệm với bản thân đồng nghĩa với việc xây dựng một lối sống lành mạnh và cân bằng. Ở tuổi trẻ, cơ sở tiếp cận tri thức và các hoạt động xã hội rất rộng mở, nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại nhiều khó khăn. Những thói quen xấu như lười biếng, sử dụng chất kích thích hay sa đà vào các trò chơi vô bổ có thể tạo tuổi trẻ lãng phí thời gian quý giá của mình. Do đó, việc xây dựng đường sống khoa học, tập luyện thể dục thể thao, ăn uống hợp lý và giữ sức khỏe là những trách nhiệm quan trọng mà mỗi người trẻ cần thực hiện để duy trì thể lực và tinh thần.

Bên cạnh đó, học tập và rèn luyện tri thức cũng là một phần không thể thiếu trong trách nhiệm của tuổi trẻ. Xã hội hiện đại đòi hỏi con người không chỉ có kiến ​​thức chuyên môn mà còn phải có kỹ năng mềm như giao tiếp, quản lý thời gian và làm việc nhóm. Để đạt được điều này, mỗi bạn trẻ cần có ý thức học tập liên tục, không chỉ ở nhà trường mà còn thông qua hoạt động xã hội, khóa học trực tuyến và trải nghiệm thực tiễn. Chỉ khi trang bị cho mình một hành trang kiến ​​trúc đầy đủ, thanh niên mới có thể đối mặt với những khó khăn của cuộc sống và tự vươn lên bằng chính sức lực của mình.

BÀI 2

Bài văn nghị luận về trách nhiệm của trẻ trong cuộc sống hiện đại

Tuổi trẻ là giai đoạn đẹp nhất trong cuộc sống mỗi con người. Đây không chỉ là khoảng thời gian đầy nhiệt huyết, ước mơ và khát vọng mà còn là giai đoạn quyết định tương lai của mỗi cá nhân và sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, trách nhiệm của trẻ trẻ trong cuộc sống hiện đại trở nên vô cùng quan trọng và đáng suy ngẫm.

Trước hết, tuổi trẻ có trách nhiệm phát triển bản thân và hoàn thiện nhân cách. Trong xã hội ngày nay, việc học tập và rèn luyện là một nhiệm vụ không thể xem nhẹ nhàng. Học tập không chỉ dừng lại ở việc tiếp tục thu tri thức từ sách mà còn là học hỏi từ thực tiễn cuộc sống, từ những kinh nghiệm và thất bại của chính mình. Giúp việc không ngừng hoàn thiện bản thân, thế hệ trẻ có thể trở thành những người công dân có ích, góp phần xây dựng xã hội ngày một tươi sáng, thịnh vượng.

Bên cạnh việc phát triển bản thân, tuổi trẻ còn có trách nhiệm đối với gia đình, cộng đồng và xã hội. Một trong những điều rõ ràng nhất của trách nhiệm này là cống hiến sức mình để giúp đỡ người khác và tham gia vào các hoạt động xã hội. Điều này không chỉ giúp bản thân trở nên mạnh mẽ, trưởng thành hơn, mà còn góp phần vào việc cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Trong cuộc sống hiện đại với nhiều vấn đề như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, hay bất bình đẳng xã hội, sự tham gia của giới trẻ có thể tạo ra những thứ thay đổi đáng kể, đem lại sự phát triển tốt đẹp cho xã hội.

Để vượt qua những giai đoạn tuổi trẻ đầy chông gai, cần phải hiểu rằng, thành công không đến từ sự thụ động mà từ quá trình học tập, lao động và cống hiến không ngừng nghỉ. Sự quyết tâm và trách nhiệm không chỉ giúp họ đạt được thành công cá nhân mà còn góp phần xây dựng một xã hội tốt hơn.

Tóm lại, trách nhiệm của tuổi trẻ trong cuộc sống hiện đại không chỉ là công việc học tập và phát triển bản thân mà còn là cống hiến và đóng góp cho xã hội. Với ý thức rõ ràng về tinh thần trách nhiệm và nỗ lực không ngừng nghỉ, giới trẻ chắc chắn sẽ trở thành thành viên nguồn lực quan trọng, góp phần đưa ra xã hội tiến xa hơn trên con đường phát triển.

BÀI 3

Vai trò của tuổi trẻ trong sự phát triển của đất nước

Tuổi trẻ được ví như mùa xuân của cuộc đời, là giai đoạn mà con người đầy nhiệt huyết, đam mê, sáng tạo và khát vọng nâng cao. Trong mọi thời đại, tuổi trẻ luôn tràn đầy sức mạnh, có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia.

Tuổi trẻ chính là nguồn năng lượng dồi dào, mang lại sự đổi mới và sáng tạo cho xã hội. Với sự ham học hỏi và khả năng tiếp cận tri thức mới, thế hệ trẻ luôn mang trong mình những ý tưởng sáng tạo táo bạo, có thể giải quyết được nhiều vấn đề mà xã hội đang phải đối mặt. Điều này càng rõ ràng hơn trong thời đại công nghệ phát triển vượt bậc hiện nay, khi mà tiến bộ về khoa học, kỹ thuật đòi hỏi sự nhạy bén và đổi mới không ngừng. Những phát minh, sáng kiến ​​của tuổi trẻ không chỉ làm giàu cho chính họ mà còn mang lại giá trị cho xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa và khoa học.

Bên cạnh đó, Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng, mỗi khi đất nước đứng trước nguy hiểm, tuổi trẻ luôn là những người đứng lên đầu tiên. Từ những chiến sĩ trẻ tuổi của các kháng chiến chống ngoại xâm đến những người thanh niên ngày nay sẵn sàng tham gia bảo vệ biển đảo, biên giới của Tổ quốc, lòng yêu nước của tuổi trẻ luôn là là một phần nguồn lực để giúp đỡ đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

Ngoài ra, tuổi trẻ còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng đạo đức xã hội, giá trị của dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi các giá trị văn hóa đang ngày càng bị mai một bởi sự nhập vào của các nền văn hóa ngoại lai, thế hệ trẻ cần có ý thức cầm tay và phát huy các giá trị văn hóa hóa tốt đẹp của dân tộc. Điều này không chỉ là bảo tồn di sản văn hóa mà còn là cách để khẳng định bản sắc và niềm tự hào dân tộc trong thời đại

Tuy nhiên, bên cạnh những tiềm năng và cơ hội, tuổi trẻ ngày nay cũng đối mặt với nhiều phương thức. Một phần giới trẻ còn sống thụ động, thiếu trách nhiệm, sa vào lối sống hưởng thụ, xa rời lý tưởng và tinh thần cống hiến cho xã hội. Một số bạn trẻ dễ bị thu hút kéo vào những hành vi tiêu cực, gây ảnh hưởng đến bản thân và cộng đồng. Đây là những vấn đề cần được nhận diện và giải quyết để trẻ có thể phát huy tối đa vai trò của mình trong xã hội.

Để trở thành những người trẻ có tinh thần trách nhiệm và đóng góp vào sự phát triển của đất nước, mỗi thanh niên cần rèn luyện bản thân, không ngừng học hỏi và nâng cao tri thức, cần phải có ý thức rõ ràng về trách nhiệm đối với gia đình, xã hội và quốc gia. Đây là trách nhiệm là chìa khóa để tuổi trẻ tự tin bước vào tương lai và trở thành những người kiến ​​tạo nên thịnh vượng.

Tóm tắt lại, tuổi trẻ chính là tương lai của đất nước. Với sự sáng tạo, nhiệt huyết, lòng yêu nước và trách nhiệm, thế hệ trẻ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và phát triển xã hội. Mỗi thanh niên cần ý thức rõ vai trò của mình, rèn luyện bản thân và không ngừng cống hiến để đất nước giàu mạnh, văn minh hơn.

Viết bài văn nghị luận về một vấn đề có liên quan đến tuổi trẻ lớp 12 chọn lọc (Viết bài văn nghị luận về tuổi trẻ hay nhất) tham khảo như trên.

Viết bài văn nghị luận về một vấn đề có liên quan đến tuổi trẻ lớp 12 chọn lọc? Viết bài văn nghị luận về tuổi trẻ hay nhất?

Viết bài văn nghị luận về một vấn đề có liên quan đến tuổi trẻ lớp 12 chọn lọc? Viết bài văn nghị luận về tuổi trẻ hay nhất? (Hình từ Internet)

Yêu cầu lựa chọn văn bản (ngữ liệu) đối với môn Ngữ văn trong chương trình giáo dục phổ thông thế nào?

Căn cứ theo tiểu mục 4 Mục VIII Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT về Chương trình môn Ngữ Văn có nêu rõ

Ngoài việc bảo đảm các tiêu chí đã nêu ở mục V Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT về Chương trình môn Ngữ Văn, ngữ liệu dạy học trong môn Ngữ văn cần bảo đảm các yêu cầu sau:

- Bảo đảm tỉ lệ hợp lí giữa văn bản văn học với văn bản nghị luận và văn bản thông tin. Trong văn bản văn học, chú ý bảo đảm sự cân đối tương đối giữa các thể loại cơ bản (truyện, thơ, kí, kịch), giữa văn học trung đại và văn học hiện đại, giữa văn học dân gian và văn học viết, giữa văn học dân tộc Kinh và văn học dân tộc thiểu số, giữa văn học Việt Nam và văn học nước ngoài, giữa Đông và Tây. “Sự cân đối” được hiểu là một tỉ lệ thích hợp, chứ không phải có tỉ lệ bằng nhau. Ngữ liệu cho tất cả các lớp đều phải có văn bản truyện và thơ. Ngoài truyện và thơ, mỗi cấp học đều phải có văn bản kí hoặc kịch. Các lớp ở cấp tiểu học và đầu cấp trung học cơ sở ưu tiên văn học Việt Nam hiện đại và đương đại. Hạn chế hiện tượng một văn bản được sử dụng lặp lại ở nhiều lớp học, cấp học khác nhau.

- Bảo đảm sự phù hợp của văn bản với yêu cầu phát triển và thời lượng học tập của chương trình. Độ khó của các văn bản đọc tăng dần qua từng năm học. Thời gian để dạy học một văn bản phải tương thích với độ dài và độ phức tạp của nó để bảo đảm giáo viên có thể giúp học sinh tiếp cận đầy đủ và sâu sắc văn bản, cho học sinh có cơ hội đọc trực tiếp và trọn vẹn những tác phẩm được chọn học. Hạn chế việc dạy học trích đoạn, trừ trường hợp những tác phẩm văn học có dung lượng lớn như tiểu thuyết, hồi kí, sử thi, ví dụ: Truyện Kiều của Nguyễn Du.

- Bảo đảm kế thừa và phát triển các chương trình môn Ngữ văn đã có. Chương trình dựa vào 9 tác gia và các tác phẩm văn học được học trong chương trình và sách giáo khoa hiện hành, lựa chọn và bổ sung một số tác giả, tác phẩm có vị trí quan trọng, tiêu biểu cho thành tựu văn học dân tộc qua các giai đoạn để dạy học trong nhà trường với ba cấp độ: tác phẩm bắt buộc (tác giả sách giáo khoa và giáo viên bắt buộc thực hiện theo quy định của chương trình); tác phẩm bắt buộc lựa chọn (tác giả sách giáo khoa bắt buộc lựa chọn tác phẩm của tác giả có tên trong danh mục quy định của chương trình); tác phẩm gợi ý lựa chọn (tác giả sách giáo khoa tự lựa chọn tác phẩm theo danh mục gợi ý của chương trình). Riêng với 3 tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Hồ Chí Minh ở cấp trung học phổ thông có thêm bài khái quát giới thiệu về tác gia văn học. Căn cứ vào yêu cầu cần đạt ở mỗi lớp và danh sách các tác phẩm bắt buộc, tác phẩm bắt buộc lựa chọn được quy định, tác giả sách giáo khoa chọn thêm những văn bản phù hợp được khuyến nghị trong hoặc ngoài danh mục gợi ý ở cuối chương trình. Giáo viên và học sinh được chọn đọc một số văn bản mở rộng phù hợp với yêu cầu của chương trình và lứa tuổi để thảo luận trong nhóm, trong lớp.

Hình thức đánh giá học sinh trung học phổ thông thế nào?

Căn cứ theo Điều 5 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT hướng dẫn hình thức đánh giá học sinh trung học phổ thông như sau:

- Đánh giá bằng nhận xét

+ Giáo viên dùng hình thức nói hoặc viết để nhận xét việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh; nhận xét sự tiến bộ, ưu điểm nổi bật, hạn chế chủ yếu của học sinh trong quá trình rèn luyện và học tập; đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.

+ Học sinh dùng hình thức nói hoặc viết để tự nhận xét về việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập, sự tiến bộ, ưu điểm nổi bật, hạn chế chủ yếu của bản thân.

+ Cha mẹ học sinh, cơ quan, tổ chức, cá nhân có tham gia vào quá trình giáo dục học sinh cung cấp thông tin phản hồi về việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh.

+ Đánh giá bằng nhận xét kết quả rèn luyện và học tập của học sinh được sử dụng trong đánh giá thường xuyên, đánh giá định kì thông qua các hình thức kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh phù hợp với đặc thù của môn học.

- Đánh giá bằng điểm số

+ Giáo viên dùng điểm số để đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của học sinh.

+ Đánh giá bằng điểm số được sử dụng trong đánh giá thường xuyên, đánh giá định kì thông qua các hình thức kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh phù hợp với đặc thù của môn học.

- Hình thức đánh giá đối với các môn học

+ Đánh giá bằng nhận xét đối với các môn học: Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mĩ thuật, Nội dung giáo dục của địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp; kết quả học tập theo môn học được đánh giá bằng nhận xét theo 01 (một) trong 02 (hai) mức: Đạt, Chưa đạt.

+ Đánh giá bằng nhận xét kết hợp đánh giá bằng điểm số đối với các môn học trong Chương trình giáo dục phổ thông, trừ các môn học Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mĩ thuật, Nội dung giáo dục của địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp; kết quả học tập theo môn học được đánh giá bằng điểm số theo thang điểm 10, nếu sử dụng thang điểm khác thì phải quy đổi về thang điểm 10. Điểm đánh giá là số nguyên hoặc số thập phân được lấy đến chữ số thập phân thứ nhất sau khi làm tròn số.

MỚI NHẤT
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Nguyễn Thị Minh Hiếu Lưu bài viết
151 lượt xem
Tư vấn pháp luật mới nhất
TÌM KIẾM LIÊN QUAN

TÌM KIẾM VĂN BẢN

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào