Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giá tri từ năm mươi triệu đến dưới hai trăm triệu?
Đây là trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.
Cũng như các trường hợp phạm tội tương tự, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định.
Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản, nhưng cần xác định người phạm tội có ý định phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, do đặc điểm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội chỉ chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội chỉ chiếm đoạt được tài sản khi tài sản đó đang do mình quản lý, nên chỉ có một số trường hợp có giai đoạn phạm tội chưa đạt, do đó khi xác định tài sản bị chiếm đoạt có giá trị bao nhiêu còn phải căn cứ vào giá trị tài sản đang bị chiếm đoạt.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Theo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, ngoài hình thức người lao động trực tiếp thực hiện việc kiểm tra, giám sát tại doanh nghiệp nhà nước thì pháp luật còn quy định hình thức nào khác?
- Theo Nghị định 61/2023/NĐ-CP đâu là nguyên tắc xây dựng và thực hiện hương ước quy ước?
- Theo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, nội dung có phạm vi thực hiện trong thôn, tổ dân phố thì thời hạn để Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã phải ban hành quyết định công nhận là gì?
- Theo Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở, nội dung nào là một trong những nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cơ sở?
- Từ 21/10/2024 tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp kế toán viên cần phải có là gì?